Thực hành tiếng Việt: Biện pháp tu từ nói mỉa, nghịch ngữ – Đặc điểm và tác dụng
Thực hành tiếng Việt: Biện pháp tu từ nói mỉa, nghịch ngữ – Đặc điểm và tác dụng
Mở bài
Trong văn chương và đời sống ngôn ngữ, người Việt từ lâu đã vận dụng linh hoạt nhiều biện pháp tu từ nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho lời nói. Một trong những biện pháp thú vị và hiệu quả nhất chính là nói mỉa và nghịch ngữ. Đây là những cách nói giàu tính châm biếm, thường dùng để bộc lộ thái độ phê phán, giễu cợt hoặc châm chích một hiện tượng, một con người. Trong chương trình Ngữ văn lớp 12, hai biện pháp này được chú trọng khai thác ở mảng Thực hành tiếng Việt, giúp học sinh vừa rèn luyện kỹ năng phân tích ngôn ngữ, vừa hiểu rõ giá trị biểu đạt sâu sắc của lời văn.
Thân bài
1. Đặc điểm của biện pháp tu từ nói mỉa
-
Khái niệm: Nói mỉa là cách dùng những lời lẽ có vẻ khen ngợi, tán dương, nhưng ẩn chứa trong đó là sự châm biếm, giễu cợt, thực chất là để phê phán.
-
Đặc điểm:
-
Lời nói mỉa thường trái ngược với thái độ thực của người nói.
-
Ngữ điệu, hoàn cảnh giao tiếp đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nghĩa mỉa mai.
-
Thường ngắn gọn, sắc sảo, giàu tính châm chích.
-
-
Ví dụ: Trong Số đỏ (Vũ Trọng Phụng), khi nhân vật Xuân Tóc Đỏ tình cờ trở thành “người hùng cứu quốc”, lời khen tặng của mọi người thực chất là một sự mỉa mai, nhằm phơi bày sự lố lăng của xã hội tư sản.
2. Đặc điểm của biện pháp tu từ nghịch ngữ
-
Khái niệm: Nghịch ngữ là sự kết hợp những từ ngữ, hình ảnh, khái niệm đối lập, trái ngược nhau trong cùng một phát ngôn, tạo ra sự mâu thuẫn, nghịch lí, nhằm gây ấn tượng mạnh hoặc nhấn mạnh ý nghĩa châm biếm.
-
Đặc điểm:
-
Thường xây dựng trên cơ sở sự đối lập gay gắt giữa hai vế câu.
-
Tạo cảm giác phi lí, trái ngược để người đọc/ người nghe nhận ra ẩn ý sâu xa.
-
-
Ví dụ: Trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia (Vũ Trọng Phụng), nhan đề đã là một nghịch ngữ: “hạnh phúc” – “tang gia” vốn đối lập, nhưng đặt cạnh nhau lại làm bật lên bản chất giả dối, lố bịch của nhân vật.
3. Tác dụng của biện pháp nói mỉa, nghịch ngữ
-
Tạo tiếng cười trào phúng: Tiếng cười không chỉ để giải trí mà còn hàm chứa phê phán, đả kích sâu sắc.
-
Phê phán, châm biếm thói hư tật xấu: Giúp nhà văn, nhà thơ bộc lộ thái độ đối với những hiện tượng tiêu cực trong xã hội.
-
Tăng sức gợi cảm, gợi nghĩ: Người đọc/ người nghe buộc phải suy ngẫm để nhận ra ý nghĩa thật ẩn sau lớp ngôn từ.
-
Làm phong phú nghệ thuật biểu đạt: Nói mỉa, nghịch ngữ khiến văn bản thêm sắc sảo, giàu sức sống, thể hiện rõ cá tính sáng tạo của tác giả.
4. Một số minh chứng tiêu biểu trong văn học
-
Vũ Trọng Phụng – Số đỏ: Lời khen tặng Xuân Tóc Đỏ hay cảnh “Hạnh phúc của một tang gia” đều là những ví dụ đặc sắc cho thủ pháp nói mỉa và nghịch ngữ.
-
Bảo Ninh – Nỗi buồn chiến tranh: Sự tồn tại của “nỗi buồn” trong khi người ta vẫn ngợi ca chiến tranh đã gợi lên nghịch lí – chiến tranh vốn là sự hi sinh, đau thương, nhưng lại bị bao phủ bằng những mĩ từ giả tạo.
-
Ca dao, tục ngữ: “Thương em anh cũng muốn vô / Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang” – đôi khi cũng mang sắc thái mỉa mai, khi lời thương đi kèm sự né tránh trách nhiệm.
Kết bài
Nói mỉa và nghịch ngữ là hai biện pháp tu từ độc đáo, giàu sức gợi, thường được sử dụng trong văn chương và đời sống hằng ngày. Chúng không chỉ tạo nên tiếng cười châm biếm, mà còn giúp người đọc nhận ra sự thật trần trụi, mâu thuẫn của cuộc sống. Trong văn học hiện đại, đặc biệt ở những cây bút hiện thực trào phúng như Vũ Trọng Phụng, hai biện pháp này đã trở thành công cụ sắc bén để phê phán xã hội. Việc học tập và thực hành nói mỉa, nghịch ngữ không chỉ giúp học sinh hiểu hơn về ngôn ngữ nghệ thuật, mà còn rèn luyện năng lực cảm thụ, khả năng tư duy phê phán và thái độ sống trung thực trước những hiện tượng giả dối của đời thường.
Thực hành tiếng Việt: Biện pháp tu từ nói mỉa, nghịch ngữ – Đặc điểm và tác dụng, Ngữ văn lớp 12, tập 1
Soạn bài: Thiên Di
Nhận xét
Đăng nhận xét