Đồng dao mùa xuân - Nguyễn Khoa Điềm

Đồng dao mùa xuân - Nguyễn Khoa Điềm

Có một người lính

Đi vào núi xanh

Những năm máu lửa.


Một ngày hoà bình

Anh không về nữa.


Có một người lính

Chưa một lần yêu

Cà phê chưa uống

Còn mê thả diều


Một lần bom nổ

Khói đen rừng chiều

Anh thành ngọn lửa

Bạn bè mang theo


Mười, hai mươi năm

Anh không về nữa

Anh vẫn một mình

Trường Sơn núi cũ


Ba lô con cóc

Tấm áo màu xanh

Làn da sốt rét

Cái cười hiền lành


Anh ngồi lặng lẽ

Dưới cội mai vàng

Dài bao thương nhớ

Mùa xuân nhân gian


Anh ngồi rực rỡ

Màu hoa đại ngàn

Mắt như suối biếc

Vai đầy núi non...


Tuổi xuân đang độ

Ngày xuân ngọt lành

Theo chân người lính

Về từ núi xanh...

(Thơ Nguyễn Khoa Điềm, Tuyển tập 40 năm do tác giả chọn, NXB Văn Học, Hà Nội, 2011, tr. 85 - 86).


Giới thiệu tác giả và tác phẩm: Đồng dao mùa xuân – Nguyễn Khoa Điềm

1. Giới thiệu tác giả Nguyễn Khoa Điềm

Nguyễn Khoa Điềm (sinh năm 1943) là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam hiện đại, đặc biệt nổi bật trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ông sinh ra tại Thừa Thiên – Huế, trong một gia đình có truyền thống yêu nước và hiếu học. Mảnh đất cố đô, với vẻ đẹp trầm mặc, sâu lắng và đầy chất thơ, đã nuôi dưỡng tâm hồn thi sĩ trong ông.

Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Ông sớm tham gia phong trào học sinh – sinh viên yêu nước tại Huế, sau đó trực tiếp hoạt động trong phong trào giải phóng dân tộc. Chính vì vậy, thơ Nguyễn Khoa Điềm luôn thấm đẫm cảm hứng về đất nước, con người, lẽ sống và tình yêu lớn lao dành cho Tổ quốc.

Những năm tháng chiến tranh đã để lại dấu ấn sâu đậm trong sáng tác của ông. Thơ Nguyễn Khoa Điềm không chỉ phản ánh hiện thực gian khổ, ác liệt mà còn khắc họa vẻ đẹp lãng mạn, lý tưởng của tuổi trẻ ra trận. Ông là tác giả của nhiều tập thơ nổi tiếng như:

  • Đất ngoại ô (1972)

  • Mặt đường khát vọng (1974)

  • Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986)

  • Cõi lặng (2007)

Trong số đó, Mặt đường khát vọng được coi là tác phẩm tiêu biểu, khẳng định vị trí của Nguyễn Khoa Điềm trong nền thơ ca kháng chiến. Thơ ông thường giàu chất chính luận, giàu cảm xúc trữ tình, đồng thời giàu chất triết luận sâu sắc về con người và đất nước.

Ngoài vai trò nhà thơ, Nguyễn Khoa Điềm còn từng giữ nhiều trọng trách trong lĩnh vực chính trị – văn hóa, như Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin, Ủy viên Bộ Chính trị. Tuy nhiên, dù ở cương vị nào, ông vẫn luôn gắn bó với thơ, coi thơ như cách để lưu giữ ký ức, dâng tặng tình yêu cho quê hương và nhân dân.

2. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của bài thơ Đồng dao mùa xuân

Bài thơ Đồng dao mùa xuân ra đời trong bối cảnh đất nước đã bước vào hòa bình, nhưng vết thương chiến tranh vẫn còn in đậm trong ký ức nhiều thế hệ. Đây là một trong những sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Khoa Điềm viết về người lính – hình tượng trung tâm của thơ ca kháng chiến.

Ngay từ nhan đề, Đồng dao mùa xuân đã gợi ra âm hưởng vừa quen thuộc vừa mới mẻ. “Đồng dao” vốn là những khúc hát dân gian hồn nhiên, trong sáng của tuổi thơ, gắn liền với niềm vui, sự ngây thơ và tình yêu cuộc sống. Khi ghép với “mùa xuân” – mùa của sự sống, mùa của thanh xuân và hi vọng – nhan đề gợi ra sự giao hòa giữa cái hồn nhiên, tươi đẹp với ký ức bi tráng về chiến tranh.

Trong bài thơ, hình tượng người lính hiện lên giản dị nhưng vô cùng thiêng liêng. Đó là một người lính trẻ, ra đi từ những năm tháng máu lửa, chưa một lần yêu, chưa kịp thưởng thức những niềm vui bình dị của đời thường. Người lính ấy ngã xuống trong bom đạn, hóa thành “ngọn lửa” bất tử, để lại bao thương nhớ và trở thành biểu tượng của mùa xuân bất diệt.

3. Phân tích nội dung và nghệ thuật

a. Nội dung

  • Khắc họa hình tượng người lính: Người lính trong bài thơ mang nét đẹp trẻ trung, trong sáng và hồn nhiên. Anh ra đi khi chưa kịp trải qua những điều giản dị như uống cà phê, yêu thương hay thả diều. Sự hy sinh của anh vì thế càng để lại nhiều day dứt, thương nhớ.

  • Cái chết hóa thành bất tử: Dù người lính đã ngã xuống trong khói bom, anh không mất đi, mà hóa thân vào thiên nhiên, thành màu hoa, thành “ngọn lửa” rực rỡ, trường tồn cùng mùa xuân của nhân gian.

  • Sự tri ân và tôn vinh: Bài thơ là khúc hát tri ân, ca ngợi những người lính đã hiến dâng tuổi xuân cho Tổ quốc. Nhờ sự hy sinh ấy mà đất nước có ngày hòa bình, nhân dân có mùa xuân ngọt lành.

b. Nghệ thuật

  • Giọng thơ nhẹ nhàng, tha thiết, giàu nhạc điệu, mang âm hưởng như một khúc đồng dao, dễ nhớ, dễ ngân vang.

  • Hình ảnh giàu sức gợi: “ngọn lửa”, “cội mai vàng”, “mắt như suối biếc”, “vai đầy núi non”… tạo nên bức chân dung vừa gần gũi vừa sử thi của người lính.

  • Kết hợp hài hòa giữa nỗi đau thương và niềm tự hào, giữa ký ức bi tráng và niềm tin vào mùa xuân bất tử.

4. Giá trị của tác phẩm

Đồng dao mùa xuân không chỉ là một bài thơ tưởng niệm người lính đã ngã xuống, mà còn là khúc hát ngợi ca tuổi trẻ, ca ngợi sự bất tử của mùa xuân dân tộc. Qua đó, Nguyễn Khoa Điềm gửi gắm thông điệp: máu xương của thế hệ cha anh đã làm nên mùa xuân hòa bình, để thế hệ sau được sống hạnh phúc, tự do.

Bài thơ góp phần khắc sâu thêm hình tượng người lính trong văn học Việt Nam – vừa đời thường, mộc mạc, vừa vĩ đại, thiêng liêng. Nó cũng khẳng định phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm: kết hợp chất trữ tình ngọt ngào với chiều sâu suy tư, triết luận.


Kết luận:
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thời kỳ chống Mỹ, với những tác phẩm mang đậm hơi thở của thời đại, chan chứa tình yêu đất nước và con người. Đồng dao mùa xuân là một khúc hát tri ân đầy xúc động, vừa mộc mạc vừa bi tráng, ca ngợi sự hy sinh của người lính, đồng thời tôn vinh mùa xuân bất tử của dân tộc.

Soạn bài: Thiên Di

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Tóm Tắt tiểu thuyết "Mưa Đỏ" của Chu Lai

IQ Test: Raven’s Progressive Matrices for Children

Khởi Nghĩa Hai Bà Trưng: Nguyên nhân, Diễn biến và Ý nghĩa

Phân tích “Bài học đường đời đầu tiên” Trích Dế Mèn Phiêu Lưu Kí – Tô Hoài

Phân tích “Nỗi buồn chiến tranh” – Trích, Bảo Ninh

Tóm tắt Dế Mèn phiêu lưu ký của Tô Hoài

Top 10 Nghề kiếm tiền tốt nhất Việt Nam năm 2025

BẢNG TỬ VI SỐ MỆNH TỪ NĂM 1955 ĐẾN 1985

Thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật

Bảng Tử Vi Số Mệnh từ năm 1955 đến 2000